MỘT SỐ THÔNG TIN THÊM TỪ BÁO CẦN THƠ ĐIỆN TỬ
Ðầu tiên là chuyện về bức ảnh anh hùng Nguyễn Trung Trực. Nhiều tư liệu đều ghi nhận ông hy sinh năm mới 30 tuổi (1838-1868). Tuy nhiên tất cả di ảnh, tượng thờ ông ở Nam Bộ đều thể hiện một người đàn ông quắc thước, có râu dài, khoảng độ 50-60 tuổi. Lý giải việc này, trong dân gian cho rằng: cụ Nguyễn là một tướng lĩnh tài ba, trẻ tuổi, để tạo uy tín khi vận động các tầng lớp, nhất là các sĩ phu, cụ Nguyễn phải cải trang thành người lớn tuổi. Mặt khác, việc cải trang nói trên cũng nhằm qua mắt bọn tay sai, chỉ điểm. Trước đó, để dập tắt phong trào khởi nghĩa ở Nam Bộ, thực dân Pháp đã cho người vẽ chân dung các lãnh tụ khởi nghĩa: Trương Ðịnh, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung Trực... dán thông báo truy nã, treo giải thưởng rất cao. Chính nhờ việc cải trang này mà cụ Nguyễn qua được mắt giặc, bí mật hoạt động ở nhiều nơi, khiến giặc ăn không ngon ngủ không yên.
Một chuyện khác khá huyền bí kể rằng một lần cụ Nguyễn và nghĩa quân đang giong buồm trên vùng biển Tây. Bỗng nhiên mây đen ùn ùn kéo đến, quân trên đoàn thuyền đều hoảng sợ, lo lắng trong phút chốc sẽ có sóng to, gió lớn làm tàu thuyền bị chìm đắm. Thế nhưng, cụ Nguyễn vẫn bình tĩnh, ung dung bước đến mũi thuyền rút kiếm ra, trợn mắt chỉ thẳng lên trời. Bỗng chốc trời yên, biển lặng. Từ đó đến nay, nhiều ngư dân trong vùng có tập tục đóng thuyền đi biển đều vẽ hai con mắt thuyền chỉ có màu trắng, không có tròng đen.
Chuyện chiếu Tà Niên có hình chữ Thọ cũng rất nổi tiếng. Người dân Tà Niên (huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) có nghề dệt chiếu truyền thống. Từ xa xưa, chiếu Tà Niên đẹp, bền, nổi tiếng khắp Nam Bộ. Hay tin cụ Nguyễn sẽ bị thực dân Pháp hành hình, cảm kích khí khái kiên trung của cụ, người Tà Niên đã bàn với nhau ngày đêm dệt chiếu trải dưới chân người anh hùng. Khi tên đao phủ ra tay, máu từ cụ Nguyễn phun ra mặt chiếu, đọng thành hình chữ Thọ. Tiếc thương cụ, người dân Tà Niên đã mang chiếc chiếu này về phụng thờ rất trang trọng. Cũng từ đó, chiếu ở Tà Niên dệt ra đều phải in hoa văn chữ Thọ lưu truyền cho đến ngày nay.
Lễ hội truyền thống kỷ niệm 151 năm anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực hy sinh (1868-2019).
Một câu chuyện khác về ngôi mộ linh thiêng của Bà lớn tướng Lê Kim Ðịnh, còn có tên bà Ðiều - phu nhân của cụ Nguyễn Trung Trực. Khi cụ Nguyễn lui quân về Phú Quốc, bà Ðiều cũng ra Phú Quốc cùng chồng kháng chiến chống Pháp. Lúc này bà vừa mới sinh được một người con trai. Do mới từ đất liền ra, căn cứ chưa kịp xây, quân Pháp đã tiến đánh, cụ Nguyễn phải chia nghĩa quân thành 2 cánh, lùi về Bắc đảo phục kích quân Pháp.
Bà Ðiều chỉ huy một cánh quân đóng tại sông Cửa Cạn, nhằm khiêu khích, nhử quân Pháp từ biển theo đường sông tiến sâu vào đảo. Cánh quân kia do cụ Nguyễn chỉ huy mai phục cặp sông, nhằm bất ngờ đánh úp. Ðể an toàn cho đứa con mới chào đời, bà Ðiều đã giao con cho cụ Nguyễn trông giữ. Thực dân Pháp tấn công đúng lúc thủy triều xuống, tàu nghi binh của bà Ðiều bị mắc cạn. Tuy vậy, bà Ðiều vẫn bình tĩnh, chỉ huy nghĩa quân vừa chiến đấu vừa cho người bươi cát để tàu rút vào nhánh sông. Khi hay tin đoàn thuyền của bà Ðiều mắc cạn, cụ Nguyễn vội vã giấu con trai vào một bọng cây cổ thụ rồi chỉ huy nghĩa quân giải cứu. Khi ra đến cửa sông thì bà Ðiều đã hy sinh, cụ Nguyễn phải tạm an táng bà ở gần đó.
Bị quân Pháp đánh ác liệt, cụ Nguyễn phải rút lui về Ghềnh Dầu. Tương truyền khi để con lại trong bọng cây, cụ đã đặt vào một nải chuối vàng làm dấu. Nghĩa quân của cụ Nguyễn sau đó giả dạng ngư dân vượt qua vòng vây của quân Pháp trở ra cửa sông để tìm con trai của cụ nhưng không còn dấu vết.
Ðến nay nhiều ngư dân ở Cửa Cạn vẫn thường đến thắp nhang cho một ngôi mộ cổ ở cửa sông trước khi đi biển dài ngày. Dân gian kể rằng, vào những đêm trăng sáng, nhiều người thường thấy một chiếc tàu cổ gần khu vực ngôi mộ. Trên con tàu đó có tiếng người phụ nữ ru con. Những ngư dân nhìn thấy con tàu khấn nguyện thành tâm sẽ có chuyến đi biển thuận buồm xuôi gió và trúng nhiều mẻ lưới lớn.
Những chuyện kể nêu trên có cốt lõi là lòng kính trọng, tôn thờ vị anh hùng của đông đảo người dân. Hiện nay ở ÐBSCL có khoảng 20 đền thờ cụ Nguyễn Trung Trực. Ngoài đền thờ chính, nhiều nơi còn thờ chung trong đình làng, đền, chùa... Nhiều nhà dân còn thờ ảnh cụ Nguyễn trên như thờ tổ tiên, gia tộc của mình. Tất cả thể hiện cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn mãi mãi bất tử trong lòng dân.
Quan Tuần phủ, nhà thơ lỗi lạc dưới triều Nguyễn - Huỳnh Mẫn Ðạt (1807-1882) đã khái quát nhân cách và chiến công của cụ Nguyễn bằng hai câu thơ để đời:
"Hỏa hồng Nhựt Tảo
oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang
khấp quỷ thần".