Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực

Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực sinh năm 1838, tại làng Bình Nhựt, huyện Cửu An, phủ Tân An (nay thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Tên thật là Nguyễn Văn Lịch, còn gọi là Quản Lịch, Quản Chơn. Nguyên quán gốc của ông ở xóm Lưới, thôn Vĩnh Hội, tổng Trung An, Phù Cát (nay là thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định).
Nguyễn Trung Trực sinh ra và lớn lên trong thời điểm lịch sử nước nhà đứng trước thảm họa bị thực dân Pháp xâm lược. Với lòng yêu nước nồng nàn, người thanh niên dân chài Nguyễn Trung Trực đã tham gia vào lực lượng nghĩa quân của Trương Định hoạt động ở vùng Gò Công. Năm 1861, Nguyễn Trung Trực trở thành thủ lĩnh của nghĩa quân khi tuổi đời còn rất trẻ, lãnh đạo nghĩa quân lập chiến công vang dội, đốt cháy và làm chìm tàu Espérance của quân Pháp trên sông Nhật Tảo.
ntt
Ðêm 16-6-1868, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân đánh úp đồn Rạch Giá và chiếm giữ cả tuần lễ. Thực dân Pháp phải điều động quân đội, vũ khí hạng nặng từ Vĩnh Long sang tái chiếm Rạch Giá. Nghĩa quân của ông quá chênh lệch so với quân Pháp, vũ khí lại thô sơ, nên phải rút về Hòn Chông, rồi ra đảo Phú Quốc. Thực dân Pháp tiến đánh Phú Quốc, nghĩa quân chống cự quyết liệt, cuối cùng chúng phải dùng thủ đoạn bắt mẹ của ông làm con tin. Ngày 19-9-1868, Nguyễn Trung Trực bị thực dân Pháp bắt, chiêu hàng nhưng không thể lay chuyển được khí tiết của vị anh hùng, nên chúng đưa ông ra chợ Rạch Giá xử chém ngày 27-10-1868.(ngày 12/09 âm lịch, Mậu Thìn)
Dù ông mất, nhưng câu nói bất hủ "Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây", cùng những câu chuyện về ông vẫn lưu truyền trong dân gian, sách sử.
Sau khi ông bị hành hình, dân chúng vô cùng cảm phục nên đã bí mật thờ ông như một vị thần trong đền thờ Nam Hải đại vương, đây chính là ngôi đền thờ Nguyễn Trung Trực tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang hiện nay.
= = = =

MỘT SỐ THÔNG TIN THÊM TỪ BÁO CẦN THƠ ĐIỆN TỬ

Ðầu tiên là chuyện về bức ảnh anh hùng Nguyễn Trung Trực. Nhiều tư liệu đều ghi nhận ông hy sinh năm mới 30 tuổi (1838-1868). Tuy nhiên tất cả di ảnh, tượng thờ ông ở Nam Bộ đều thể hiện một người đàn ông quắc thước, có râu dài, khoảng độ 50-60 tuổi. Lý giải việc này, trong dân gian cho rằng: cụ Nguyễn là một tướng lĩnh tài ba, trẻ tuổi, để tạo uy tín khi vận động các tầng lớp, nhất là các sĩ phu, cụ Nguyễn phải cải trang thành người lớn tuổi. Mặt khác, việc cải trang nói trên cũng nhằm qua mắt bọn tay sai, chỉ điểm. Trước đó, để dập tắt phong trào khởi nghĩa ở Nam Bộ, thực dân Pháp đã cho người vẽ chân dung các lãnh tụ khởi nghĩa: Trương Ðịnh, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung Trực... dán thông báo truy nã, treo giải thưởng rất cao. Chính nhờ việc cải trang này mà cụ Nguyễn qua được mắt giặc, bí mật hoạt động ở nhiều nơi, khiến giặc ăn không ngon ngủ không yên.

Một chuyện khác khá huyền bí kể rằng một lần cụ Nguyễn và nghĩa quân đang giong buồm trên vùng biển Tây. Bỗng nhiên mây đen ùn ùn kéo đến, quân trên đoàn thuyền đều hoảng sợ, lo lắng trong phút chốc sẽ có sóng to, gió lớn làm tàu thuyền bị chìm đắm. Thế nhưng, cụ Nguyễn vẫn bình tĩnh, ung dung bước đến mũi thuyền rút kiếm ra, trợn mắt chỉ thẳng lên trời. Bỗng chốc trời yên, biển lặng. Từ đó đến nay, nhiều ngư dân trong vùng có tập tục đóng thuyền đi biển đều vẽ hai con mắt thuyền chỉ có màu trắng, không có tròng đen.

Chuyện chiếu Tà Niên có hình chữ Thọ cũng rất nổi tiếng. Người dân Tà Niên (huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) có nghề dệt chiếu truyền thống. Từ xa xưa, chiếu Tà Niên đẹp, bền, nổi tiếng khắp Nam Bộ. Hay tin cụ Nguyễn sẽ bị thực dân Pháp hành hình, cảm kích khí khái kiên trung của cụ, người Tà Niên đã bàn với nhau ngày đêm dệt chiếu trải dưới chân người anh hùng. Khi tên đao phủ ra tay, máu từ cụ Nguyễn phun ra mặt chiếu, đọng thành hình chữ Thọ. Tiếc thương cụ, người dân Tà Niên đã mang chiếc chiếu này về phụng thờ rất trang trọng. Cũng từ đó, chiếu ở Tà Niên dệt ra đều phải in hoa văn chữ Thọ lưu truyền cho đến ngày nay.

 

Lễ hội truyền thống kỷ niệm 151 năm anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực hy sinh (1868-2019).

 

Một câu chuyện khác về ngôi mộ linh thiêng của Bà lớn tướng Lê Kim Ðịnh, còn có tên bà Ðiều - phu nhân của cụ Nguyễn Trung Trực. Khi cụ Nguyễn lui quân về Phú Quốc, bà Ðiều cũng ra Phú Quốc cùng chồng kháng chiến chống Pháp. Lúc này bà vừa mới sinh được một người con trai. Do mới từ đất liền ra, căn cứ chưa kịp xây, quân Pháp đã tiến đánh, cụ Nguyễn phải chia nghĩa quân thành 2 cánh, lùi về Bắc đảo phục kích quân Pháp.

Bà Ðiều chỉ huy một cánh quân đóng tại sông Cửa Cạn, nhằm khiêu khích, nhử quân Pháp từ biển theo đường sông tiến sâu vào đảo. Cánh quân kia do cụ Nguyễn chỉ huy mai phục cặp sông, nhằm bất ngờ đánh úp. Ðể an toàn cho đứa con mới chào đời, bà Ðiều đã giao con cho cụ Nguyễn trông giữ. Thực dân Pháp tấn công đúng lúc thủy triều xuống, tàu nghi binh của bà Ðiều bị mắc cạn. Tuy vậy, bà Ðiều vẫn bình tĩnh, chỉ huy nghĩa quân vừa chiến đấu vừa cho người bươi cát để tàu rút vào nhánh sông. Khi hay tin đoàn thuyền của bà Ðiều mắc cạn, cụ Nguyễn vội vã giấu con trai vào một bọng cây cổ thụ rồi chỉ huy nghĩa quân giải cứu. Khi ra đến cửa sông thì bà Ðiều đã hy sinh, cụ Nguyễn phải tạm an táng bà ở gần đó.

Bị quân Pháp đánh ác liệt, cụ Nguyễn phải rút lui về Ghềnh Dầu. Tương truyền khi để con lại trong bọng cây, cụ đã đặt vào một nải chuối vàng làm dấu. Nghĩa quân của cụ Nguyễn sau đó giả dạng ngư dân vượt qua vòng vây của quân Pháp trở ra cửa sông để tìm con trai của cụ nhưng không còn dấu vết.

Ðến nay nhiều ngư dân ở Cửa Cạn vẫn thường đến thắp nhang cho một ngôi mộ cổ ở cửa sông trước khi đi biển dài ngày. Dân gian kể rằng, vào những đêm trăng sáng, nhiều người thường thấy một chiếc tàu cổ gần khu vực ngôi mộ. Trên con tàu đó có tiếng người phụ nữ ru con. Những ngư dân nhìn thấy con tàu khấn nguyện thành tâm sẽ có chuyến đi biển thuận buồm xuôi gió và trúng nhiều mẻ lưới lớn.

Những chuyện kể nêu trên có cốt lõi là lòng kính trọng, tôn thờ vị anh hùng của đông đảo người dân. Hiện nay ở ÐBSCL có khoảng 20 đền thờ cụ Nguyễn Trung Trực. Ngoài đền thờ chính, nhiều nơi còn thờ chung trong đình làng, đền, chùa... Nhiều nhà dân còn thờ ảnh cụ Nguyễn trên như thờ tổ tiên, gia tộc của mình. Tất cả thể hiện cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn mãi mãi bất tử trong lòng dân.

Quan Tuần phủ, nhà thơ lỗi lạc dưới triều Nguyễn - Huỳnh Mẫn Ðạt (1807-1882) đã khái quát nhân cách và chiến công của cụ Nguyễn bằng hai câu thơ để đời:

"Hỏa hồng Nhựt Tảo

                               oanh thiên địa

Kiếm bạt Kiên Giang

                              khấp quỷ thần". 

 
ATGT
Học tập và làm theo Bác Hồ
130 NAM
THƯ VIỆN
Thống kê
  • Đang truy cập7
  • Máy chủ tìm kiếm6
  • Khách viếng thăm1
  • Hôm nay458
  • Tháng hiện tại805,743
  • Tổng lượt truy cập3,622,186
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi